Thứ Ba, 16 tháng 12, 2014

TetCon 2015: An ninh mạng và sự sống còn của doanh nghiệp

Trong một nền kinh tế toàn cầu hóa như hiện nay thì an toàn thông tin được xem là sự sống còn đối với các doanh nghiệp. Thực tế, an toàn thông tin mạng luôn là một vấn đề nhức nhối của các doanh nghiệp. Thế giới đã chứng kiến nhiều website của các tên tuổi tập đoàn lớn cũng từng bị hacker tấn công gây hậu quả lớn như JP Morgan, Bank of America,Citigroup,Ebay…


Tại Việt Nam trước đây đã chứng kiến không ít website, báo điện tử lớn cũng từng bị hacker làm cho tê liệt như báo Tuổi Trẻ, VietnamNet… và gần đây nhất là sự việc hệ thống website của VC Corp bị tấn công đồng loạt gây thiệt hại, tổn thất nặng nề. Mặc dù an toàn thông tin mạng là vấn đề quan trọng, ảnh hưởng lớn tới các hoạt động của doanh nghiệp nhưng không phải doanh nghiệp Việt Nam nào cũng nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề bảo mật thông tin và những nguy cơ có thể xảy ra từ việc rò rỉ thông tin đó trong chính nội bộ của doanh nghiệp mình.


Với hi vọng cung cấp cho các doanh nghiệp Việt Nam những kinh nghiệm cụ thể, những nghiên cứu và phát triển mới nhất trong lĩnh vực an toàn thông tin ở Việt Nam và trên thế giới, 5DESIRE kết hợp cùng anh Thái Dương – kỹ sư khoa học tại google tổ chức buổi hội thảo TetCon 2015. Hội thảo sẽ có các chuyên gia cao cấp về an ninh mạng đến từ các công ty Công nghệ hàng đầu thế giới như Microsoft, Google…, các hãng phần mềm lớn cùng những chuyên gia tên tuổi của Việt Nam tham dự và chia sẻ nhiều kiến thức hữu ích về:


  • Những cập nhật mới nhất trong lĩnh vực an toàn thông tin ở Việt Nam và thế giới.

  • Những kinh nghiệm thiết thực trong việc đảm bảo an toàn cho sản phẩm và hệ thống thông tin của doanh nghiệp.

Hội thảo TetCon 2015 sẽ diễn ra vào 08.00 – 18.00 ngày 06/01/2015 tại Khách sạn Majestic, Số 1, Đồng Khởi, Quận 1, TP.Hồ Chí Minh.



Đăng ký tại đây


Tất cả các bài tham luận gửi đến TetCon đều được đánh giá và chọn lựa bởi một nhóm các chuyên gia an toàn thông tin hàng đầu thế giới, bao gồm:


• Bruce Dang là lãnh đạo cao cấp nhóm an toàn sản phẩm tại Microsoft. Chuyên môn của anh ấy là Windows và dịch ngược mã phần mềm. Bruce là đồng tác giả của cuốn “Practical Reverse Engineering”.

• Nguyễn Lê Thành người sáng lập ra nhóm nghiên cứu VNSECURITY (từ năm 1998) và là thành viên của “The Hacker’s Choice”, nhóm nghiên cứu đầu tiên phá mã thành công A5 GSM vào năm 2006.

• Nguyễn Anh Quỳnh là một nhà nghiên cứu an toàn thông tin và cũng là một lập trình viên. Quỳnh là sáng lập viên của dự án Capstone Engine, một khung ứng dụng dịch ngược mã phần mềm gọn nhẹ và hỗ trợ nhiều nền tảng và kiến trúc khác nhau.

• Juliano Rizzo đã làm việc trong các lĩnh vực nghiên cứu lỗ hổng, dịch ngược và viết mã khai thác chất lượng cao từ năm 1996. Anh đã công bố nhiều nghiên cứu độc đáo, cũng như các kiến nghị an ninh và công cụ chứng minh lỗi. Juliano là một trong những người sáng lập và là nhà thiết kế của Netifera, một nền tảng nguồn mở dành cho các công cụ an toàn mạng. Anh đã làm việc ở vị trí tư vấn an ninh và phát triển mã khai thác ở Core Security Technologies (2000-2006).

• Eduardo “sirdarckcat” Vela đã làm việc với vị trí kỹ sư an toàn thông tin cho nhiều công ty IT lớn và anh ấy cũng từng tìm thấy lỗ hổng ở nhiều hệ thống lớn. Hiện anh đang làm việc tại Google với nhiệm vụ hỗ trợ các nhóm phát triển sản phẩm và phát triển các công cụ giúp web an toàn hơn.



TetCon 2015: An ninh mạng và sự sống còn của doanh nghiệp

Thứ Hai, 15 tháng 12, 2014

Tiềm năng thị trường siêu thị online tại Việt Nam

Việt Nam là một trong những thị trường bán lẻ tiềm năng được đánh giá cao vào bậc nhất khu vực. Cùng với sự phát triển của công nghệ, tích hợp thêm các kênh bán hàng trực tuyến (TMĐT) và cho ra đời siêu thị online là xu thế tất yếu để các nhà các bán lẻ gia tăng thêm khả năng cạnh tranh và thu hút khách hàng.


Đưa siêu thị lên online, khó hay dễ ?


E-grocery (siêu thị online) là một nhánh của TMĐT nhưng phức tạp hơn rất nhiều do mang đặc thù của ngành hàng siêu thị, bao gồm các mặt hàng tiêu dùng nhanh – FMCG (chủ yếu là các nhu yếu phẩm và thực phẩm tươi sống).


  • Trong ngành kinh doanh siêu thị, việc đàm phán với các nhà cung ứng về mức chiết khấu, cũng như các vấn đề thanh khoản, ghi nợ là rất quan trọng.

  • Hạn sử dụng của các mặt hàng tiêu dùng (đặc biệt là các thực phẩm tươi sống) thường rất ngắn nên khâu quản lý vận hành (như trữ hàng và giao nhận) phức tạp và tốn rất nhiều chi phí.

  • Đồng thời, đặc thù các mặt hàng tiêu dùng phổ thông là cạnh tranh về giá nên các  doanh nghiệp phải giữ giá để không bị đẩy lên quá cao và dẫn đến việc lợi nhuận biên thấp.

  • Sự cạnh tranh của các siêu thị truyền thống, cộng với sự phức tạp của quản lý vận hành khiến cho các siêu thị online khó khăn trong việc mở rộng quy mô.

Trước những rào cản kể trên, có thể dễ dàng nhận thấy, e-grocery không phải là sân chơi cho những doanh nghiệp non trẻ. Với hệ thống quản lý và giao nhận hàng sẵn có, các doanh nghiệp kinh doanh siêu thị truyền thống đang muốn lấn sân sang TMĐT sẽ có nhiều lợi thế hơn.


Cùng nhìn qua thị trường kinh doanh siêu thị Singapore và trường hợp của Cold Storage – một doanh nghiệp tiên phong đón đầu xu hướng TMĐT và hiện đang dẫn đầu trong thị trường bán lẻ của Singapore.


Cold Storage


Cold Storage là chuỗi hệ thống siêu thị lớn thứ nhì Singapore (sau NTUC FairPrice), được sở hữu bởi Dairy Farm International Holdings. Cold Storage đã mở kênh online đầu tiên ở Singapore vào năm 1997, thống trị thị trường e-grocery của Singapore gần một thập kỷ qua, với lượng khách mua hàng trực tuyến thường xuyên là 6.000 người vào năm 1998, và tăng lên đến hơn 15.000 người vào năm 2012. Hiện nay, tại Singapore, các ông lớn bán lẻ khác như NTUC FairPrice, E-mart, econ Minimart … cũng đã phát triển trang TMĐT, nhưng chỉ có Cold Storage và E-mart bán các mặt hàng thực phẩm tươi sống, rau quả, trái cây trên hệ thống trực tuyến.


Trong khi đối với các siêu thị như Cold Storage, NTUC FairPrice, E-mart, hay econ Minimart… e-grocery chỉ là một kênh phân phối, thì Redmart là một startup được thành lập vào năm 2011 và chỉ hoạt động online.


RedMart


Sau 3 năm thành lập, Redmart đã đạt được nhiều thành công đáng kể và trở thành đối thủ nặng kí của các siêu thị offline lớn của Singapore, và hiện cũng đang là đối thủ trực tiếp của Cold Storage. Ngày 14/7/2014, Redmart nhận được 23 triệu USD trong vòng đầu tư series B, nâng tổng số vốn đầu tư lên 28,4 triệu USD. Mỗi đơn hàng của Redmart trung bình từ 10 đến 20 món hàng, hơn gấp đôi so với những trang TMĐT thông thường. Với khoảng 200 nhân sự, doanh thu của Redmart đang tăng đều 20% mỗi tháng từ ngày ra mắt, con số chính xác không được tiết lộ.


Tiềm năng thị trường e-grocery tại Việt Nam


Theo báo cáo về “Mức độ sôi động của các thị  trường bán lẻ khu vực châu Á – Thái Bình Dương 2014″ do CBRE công bố, Việt Nam là một trong những thị trường bán lẻ tiềm năng được đánh giá cao vào bậc nhất khu vực do cơ cấu dân số trẻ và sức mua ngày càng được cải thiện nhờ số lượng tầng lớp trung lưu đang tăng mạnh.


Năm 2015, theo cam kết WTO, các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài sẽ được đầu tư với số vốn 100% tại Việt Nam (hiện tại 50%). Điều này khiến cho mức độ cạnh tranh trong thị trường bán lẻ Việt Nam sẽ còn sôi động hơn nữa trong thời gian sắp tới.


Ông Nguyễn Thanh Hưng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam, nhận định mua bán trực tuyến sẽ là một xu thế tất yếu khi năm trang bán hàng trực tuyến hàng đầu Việt Nam luôn có lượng truy cập cao nhất so với các website khác trong khu vực.


Ts. Đinh Thị Mỹ Loan, Chủ tịch Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam (AVR) cho rằng với sự phát triển của công nghệ và các hình thức thanh toán, bán lẻ trực tuyến nhiều khả năng sẽ bùng nổ và vì vậy, các nhà bán lẻ lớn sẽ phải tính đến chuyện kết hợp nhiều kênh khác nhau để thu hút khách hàng.


OnlineShopping1


Big C đã tiên phong đưa hệ thống chuỗi siêu thị từ offline lên online với tham vọng trở thành một trong những trang TMĐT hàng đầu Việt Nam trong vòng 2 năm tới. Ngày 18/4/2014, Cdiscount.vn – trang TMĐT của Big C chính thức được đưa vào hoạt động.


Vậy cơ hội nào cho các startup Việt trong thị trường e-grocery? Điều đó phụ thuộc vào tầm nhìn của doanh nghiệp và khả năng khai thác những ngách nhỏ của thị trường này.


  • Tại Hà Nội có Disieuthi.vn, là sàn giao dịch TMĐT, tức là một trung gian giữa các siêu thị và khách hàng. Không tốn nguồn lực để xây dựng hệ thống kho bãi, thực hiện khâu quản lý trữ hàng, startup này chọn hướng trở thành kênh phân phối trực tuyến của các siêu thị, đồng thời cung cấp dịch vụ “đi siêu thị thuê” cho khách hàng.

  • Tại TP.HCM, có các startup như Beppho.com, Ilovefood.com.vn, Dichomoingay.com đang cung cấp thực phẩm tươi sống được sơ chế sẵn qua kênh online. Sau khi đã chọn món và đặt hàng trên trang web hoặc qua tổng đài, khách hàng sẽ được giao đến tận nhà những thực phẩm đã qua sơ chế (chẳng hạn như rau củ đã nhặt, rửa sạch, thịt cá đã làm sạch, tẩm ướp theo món, các gia vị đầy đủ đi kèm) và chỉ còn việc thực hiện công đoạn cuối cùng là nấu chin theo công thức đính kèm. Dịch vụ này rất phù hợp với những gia đình hiện đại, cả vợ và chồng đều bận rộn với công việc nhưng vẫn thích những bữa ăn tự nấu, chứ không muốn đi ăn ngoài. Đây cũng là một hướng đi thông minh để khai thác thị trường ngách.


Tiềm năng thị trường siêu thị online tại Việt Nam

Thứ Ba, 2 tháng 12, 2014

Growth Hacking: Tăng trưởng đột phá cho startup

Pinterest, Facebook, Zynga, Dropbox, AirBnb… tất cả những công ty đó có điểm chung gì?


Câu trả lời là tất cả đều dùng các kỹ thuật Growth Hacking (Tạm dịch: Đột phá tăng trưởng) để tăng nhanh số lượng người dùng sản phẩm từ con số không lên đến hàng triệu (và đôi khi là hàng trăm triệu).


Cụm từ “Growth Hacking” – do Sean Ellis sáng tạo và được Andrew Chen, một doanh nhân tại thung lũng Silicon, truyền bá rộng rãi. Growth Hacking ra đời để giải quyết rắc rối thường gặp của các startup: tìm được hàng triệu người dùng đầu tiên một cách nhanh chóng sau khi đã tung sản phẩm và mọi quảng cáo ra thị trường


Người làm Growth Hacking sở hữu những đặc tính lai giữa marketer (người làm quảng cáo) và coder (lập trình viên). Đó là người luôn bị ám ảnh bởi câu hỏi “Làm sao tôi tìm được khách hàng cho sản phẩm của mình?” và trả lời với nó bằng cách nghiên cứu các A/B test (Thử nghiệm để so sánh độ hiệu quả 2 phiên bản sản phẩm sáng tạo), trang đích, yếu tố lan truyền, khả năng phát tán email, Open Graph… kết hợp cùng những đặc tính của marketing trực tiếp như chú trọng các phương pháp đo lường định lượng và nhiều phương pháp truy vấn cơ sở dữ liệu khác.



 Nếu một startup vẫn chưa tìm được điểm giao giữa sản phẩm và thị trường, Growth Hacking sẽ biến khả năng lan truyền trong cộng đồng người dùng internet trở thành một trong những đặc tính cốt lõi của sản phẩm. Sau khi sản phẩm và thị trường tương hợp, họ có thể giúp tăng cường tốc độ phát triển của sản phẩm cũng như số lượng người dùng.


Những bước đầu để Growth Hacking cho startup


1. Tất cả đều bắt đầu từ Growth Hacking Funnel – Trong những giai đoạn phát triển đầu, startup không nên chỉ tập trung vào các số liệu đầu/cuối như số lượng người dùng và doanh thu. Thay vào đó, họ nên thấu hiểu các giai đoạn phát triển số lượng người dùng (Acquisition, Activation, Retention, Revenue – Tiếp nhận, Kích hoạt, Duy trì, Doanh thu) và tập trung vào việc đưa người dùng tiến từ giai đoạn này sang giai đoạn khác:


  • Acquisition (Tiếp nhận) – Tạo cơ hội để người dùng nghe/đọc được thông tin sản phẩm của bạn thông qua báo chí, blog và các kênh truyền thông xã hội khác. Nếu bạn tạo ra được những nội dung độc đáo, thú vị và dễ tìm kiếm thì chúng sẽ có nhiều cơ hội được người dùng và các blogger nổi tiếng chia sẻ.

  • Activation (Kích hoạt/Đăng ký sử dụng) – Người dùng đến với trang chủ (hoặc trang đích) của bạn để đăng ký thành viên/like/+1/theo dõi…Các trang chủ đơn giản hóa như DropBox và Groupon thường làm tăng khả năng người dùng đăng ký hơn.

  • Retention (Duy trì) – Người dùng quay trở lại trang chủ của bạn thông qua email, hoặc các phương tiện truyền thông xã hội và tích cực sử dụng các tính năng của sản phẩm. Người dùng tích cực cũng sẽ giới thiệu các tích năng và ưu đãi của sản phẩm đến với bạn bè của mình, góp phần mở rộng số lượng người dùng. Một tuần sau khi đăng ký Quota, thành viên sẽ nhận được một email cập nhận các bài viết thú vị về chủ đề họ quan tâm và khuyến khích họ trở lại Quora. Ngoài ra, các tích năng xã hội trên Quota giúp người dùng (đã đăng ký làm thành viên hoặc chưa) dễ dàng chia sẻ các nội dung mới và thu hút thêm nhiều người dùng khác.

  • Revenue (Doanh thu) – Người dùng tích cực sẽ giúp bạn tạo ra doanh nhờ vào quảng cáo, đăng ký nhận tin tức mới, thế hệ người dùng đầu hoặc các quan hệ đối tác khác.


Một Growth Hacker không phải lúc nào cũng quan tâm đến lợi nhuận trong các giai đoạn phát triển đầu. Lúc họ nỗ lực để phát triển số lượng người dùng trong giai đoạn đầu cũng là lúc doanh thu bị đặt vào hàng thứ yếu dù không phải tất cả các startup đều có đủ khả năng để cầm cự trong thời gian đó. Một cách để thử nghiệm khả năng tạo ra doanh thu thông qua các yếu tố growth hacking chính là động viên người dùng chia sẻ nội dung của bạn. Ví dụ như khuyến mãi giảm giá, tặng phẩm hoặc tài khoản cao cấp cho người dùng để đổi lại tweet, like, +1 hoặc chia sẻ qua email thông qua tài khoản của họ.


2. Thử nghiệm A/B test – Để thử nghiệm các tính năng mới và tác động của chúng lên tốc độ tăng trưởng, các startup nên cho chạy A/B test trước. Hãy chia lượng người dùng của bạn thành hai nhóm thử nghiệm (nhóm sẽ sử dụng tính năng mới) và nhóm quản lý (nhóm vẫn sử dụng các tính năng gốc). Bạn có thể thực hiện thử nghiệm này dễ dàng bằng cách chạy một chiến dịch Google Adwords. Ví dụ như bạn bỏ ra 100 USD để hướng người dùng đến 2 trang đích khác biệt: trang homepage hiện tại của bạn và một trang đích khác với hình ảnh của người dùng và quà tặng. Hãy tính xem bạn nhận được nhiều đăng ký thành viên hơn từ trang nào. Sau đó tiếp tục lặp lại thử nghiệm với nhiều tiêu chí khác nhau.


3. Tạo ra nội dung hay – để nội dung thu hút và được chia sẻ, nó cần phải nổi bật (có thứ hạng cao trong kết quả tìm kiếm), mới mẻ và thú vị. Growth Hacker tạo những trang đích dài chứa cả các nội dung được viết một cách chuyên nghiệp và nội dung tự động hóa được chèn vào một bản mẫu (sử dụng chính API – giao diện lập trình ứng dụng của bạn).


Đối với các nội dung blog (hoặc chữ nói chung), có một số ít định dạng sẽ dễ dàng được chia sẻ và đóng góp vào sự phát triển của startup hơn như là “Hangouts on Air” của Google+, hội thoại hình ảnh sẽ được tự động đăng lên YouTube hay Trình chiếu hình ảnh như Business Insider đã áp dụng.


4. Tạo dấu ấn trên các phương tiện truyền thông xã hội – chúng ta thường cân nhắc đến hành động của những người khác để ra quyết định trong cuộc sống. Đó chính là lý do những lời nhận xét, like, +1 của các người dùng khác giúp ta tin tưởng rằng quyết định/hành động ta sắp thực hiện là đúng. Startup nên khai thác quy tắc này và chuyển hóa nó thành lượng người dùng tích cực và khả năng duy trì lượng người dùng đó.


Thêm logo vào trang chủ – startup đã từng xuất hiện trên các trang báo điện tử nổi tiếng như TechCrunch, the Next Web, New York Times… hoặc có các đối tác/khách hàng lớn như Google, Adobe, Nike nên đặt logo của họ ở trang chủ của mình. Thường thì cần phải có sự đồng ý của thương hiệu bạn mới được phép sử dụng logo nhưng đừng bỏ qua nước đi này vì logo của các thương hiệu lớn xuất hiện trên trang chủ của bạn sẽ giúp tăng sự tín nhiệm của khách hàng vào sản phẩm.


Chứng thực từ người dùng – một trong những hình thức để tạo dấu ấn bằng các phương tiện truyền thông xã hội hiệu quả nhất. Chứng nhận từ người dùng đi trước là một cách tạo lòng tin vững chắc ở những người dùng mới. Customer Development Labs (Phòng thí nghiệm phương pháp phát triển lượng khách hàng) gần đây đã chia sẻ một thí nghiệm tuyệt vời. Trong đó, họ sử dụng mTurk để phỏng vấn 100 khách hàng trong 4 tiếng đồng hồ với chi phí ít xấp xỉ 200 USD. Phương pháp đó được kỳ vọng sẽ thu thập được rất nhiều lời khen/chứng nhận của người dùng. Từ đó bạn có thể sử dụng cho các trang đích nhằm tăng số lượng người dùng mới đăng ký sử dụng sản phẩm của bạn!


Thông số về khách hàng – công bố số lượng người theo dõi, lượng tweet, người dùng mới gia nhập… là một cách để duy trì lượng người dùng tích cực và thu hút thêm nhiều người dùng mới. Ví dụ nhưInstagram có tính năng hiểu thị những bạn bè nào của người dùng vừa đăng ký sử dụng ứng dụng này.


5. Tích hợp với các nền tảng khác – tùy vào nhóm khách hàng mục tiêu mà startup đang hướng đến, tích hợp vào một nền tảng khác có thể tạo nên một ảnh hưởng lớn đến số lượng người dùng đăng ký. Phương pháp này có thể được triển khai ở dạng xây dựng một ứng dụng riêng, sử dụng API (Giao diện lập trình ứng dụng) hoặc thiết lập quan hệ đối tác mở rộng kinh doanh.


Facebook, Twitter, Google+, iOS – những nền tảng có thể giúp bạn tiếp cận với hàng triệu người dùng mới. Andrew Chen đã từng gợi ý ba câu hỏi giúp đánh giá liệu một nền tảng nào đó có thích hợp với startup của bạn không:


  • Nền tảng nào giúp tiếp cận được với nhóm người dùng mục tiêu lớn nhất?

  • Nền tảng nào ổn định nhất?

  • Nền tảng nào có ít đối thủ cạnh tranh hơn?

Đừng bỏ qua những nền tảng nhỏ vì chúng có thể giúp bạn thâm nhập sâu hơn và tiến gần hơn nhóm người dùng mục tiêu. Ví dụ như phát triển trên nền tảng SalesForce sẽ giúp bạn tiếp cận những doanh nghiệp nhỏ (và lớn) dễ dàng hơn cả. LinkedIn inApps hiện còn hạn chế nhưng bạn vẫn có thể đăng ký để tích hợp ứng dụng của mình vào mạng xã hội nghề nghiệp này, tương tự như Tripit và Slideshare.


API – Tích hợp với Twitter, Facebook và Google+… Khai thác ngôn ngữ giao diện lập trình ứng dụng, dữ liệu từ AngelList, Craigslist, Maps, Quantcast, LinkedIn và nhiều nền tảng khác nữa có thể giúp đa dạng hóa thông tin và thu hút nhiều người dùng hơn. Ví dụ như AirBnb tạo ra tính năng nổi tiếng “post to Craiglist” dù đó không phải là một giao diện lập trình chính thức.


Phát triển kinh doanh – tìm kiếm những đối tác có thể giúp bạn phát triển bằng cách cùng nhau chia sẻ các thuận lợi như thế hệ người dùng đầu tiên, quan hệ đối tác hoặc các download ưu đãi.



Growth Hacking: Tăng trưởng đột phá cho startup

Thứ Ba, 25 tháng 11, 2014

Ba chàng trai tạo “Facebook” từ năm 1999

Từ năm 1999, Tuyen Truong, Lawrence Gentilello và Aaron Bell đã bắt đầu một dự án trực tuyến tại Đại học Stanford mang tên Facebook. Khi đó, Mark Zuckerberg mới 15 tuổi. 


Họ quét (scan) ảnh của hơn 7.000 sinh viên để tạo cơ sở dữ liệu trên mạng gồm thông tin cá nhân như địa chỉ, số điện thoại và e-mail với mục đích giúp các sinh viên hiểu nhau hơn. Mạng xã hội sơ khai này, được đặt tên là Facebook và hoạt động trên site Stesmtunnel.net, khá phổ biến trong cộng đồng sinh viên Stanford vào năm 1999-2000 khi mà thời điểm đó, việc đăng chia sẻ ảnh trực tuyến chưa thuận tiện như bây giờ.



Lawrence Gentilello và Tuyen Truong


Tuy nhiên, Đại học Stanford đã dọa đuổi 3 nhà sáng lập, thậm chí kiện ra tòa nếu họ không chịu đóng cửa site với lí do vi phạm bản quyền cuốn sổ facebook mà trường này xuất bản và phân phối. Ba sinh viên này nói rằng cuốn facebook của Stanford chỉ tổng hợp ảnh do sinh viên gửi lên, chứ trường không có quyền sở hữu những bức ảnh đó, giống như một nhà xuất bản không thể nắm bản quyền các câu nói nổi tiếng khi họ in sách về những câu nói đó.


Nhưng để tránh rắc rối, Bell, Gentilello và Truong quyết định đóng cửa Facebook nhưng vẫn duy trì site hoạt động ngầm trong giới sinh viên Stanford và nó vẫn rất được ưa chuộng. Tuy nhiên, khi tốt nghiệp vào tháng 6/2000, họ ngừng dịch vụ và theo đuổi những dự án mới. Quyết định đó được cho là một sai lầm lớn trước sự thành công của Facebook.com hiện nay.


Bell, Gentilello và Truong được ví như “Gary Kildall” trong giới phần mềm. Năm 1980, khi IBM muốn tìm đối tác xây dựng hệ điều hành cho máy tính IBM PC, Microsoft không phải lựa chọn đầu tiên. Hãng Big Blue đã đến gặp Gary Kildall – tác giả hệ điều hành CP/M. Tuy nhiên, do bận việc (cũng có thông tin nói rằng do kiêu ngạo), Kildall để vợ đàm phán với IBM và bà này không thích một vài phần trong thỏa thuận của hãng nên đã từ chối. IBM quay sang kí hợp đồng với Bill Gates và ông cùng Paul Allen triển khai MS-DOS, một trong những bước ngoặt quan trọng đưa hệ điều hành của Microsoft trở nên phổ biến và họ thành hãng phần mềm lớn nhất thế giới.


Tương tự, Bell, Gentilello và Truong đã tạo Facebook khá lâu trước khi mạng xã hội Facebook.com ra đời. Nhưng đứng trước nhu cầu giao tiếp, chia sẻ nội dung trực tuyến ngày càng cao, họ lại bỏ đi theo đuổi sự nghiệp khác. Không ai có thể biết liệu duy trì, Facebook có thành công như Facebook.com ngày nay, nhưng nếu không bị cấm đoán, khả năng đó hoàn toàn có thể xảy ra. Câu chuyện được nhắc lại tuần này khi Gentilello và Truong tham gia chương trình của Valley Girl để nói về dự án mới là Screanleap.



Ba chàng trai tạo “Facebook” từ năm 1999

Thứ Hai, 24 tháng 11, 2014

Lập kế hoạch kinh doanh cho startups với Lean Canvas

Thay vì một bản kế hoạch dày cộp, bằng việc đơn giản hóa theo cách trực quan, dễ nắm bắt nhưng vẫn đem lại cái nhìn tổng quát khiến cho mô hình Canvas ngày càng được phổ biến rộng.


Mô hình Lean Canvas là một dạng biến thể của mô hình Canvas ban đầu. Nếu như Canvas phù hợp với những doanh nghiệp đã và đang thực hiện công việc kinh doanh thì Lean Canvas lại tỏ ra hữu ích nhất đối với các startup để cơ hội nhìn lại mô hình kinh doanh của mình để có những bước điều chỉnh thích hợp, giúp họ xây dựng những sản phẩm phù hợp với thị trường.


Lean-Canvas-model


Lean Canvas bao gồm 9 phần chính sau đây:


1. Problem: Vấn đề


Startup cần phải tìm kiếm và giải quyết một vấn đề đang tồn tại trên thị trường, điều đó phải đem lại giá trị cho khách hàng của bạn. Sau đây là 3 cách giúp bạn hoàn thiện nội dung phần này:

– Liệt kê ra 3 vấn đề mà startup của bạn giúp giải quyết nhu cầu cần đáp ứng của khách hàng.

– Liệt kê các giải pháp thay thế hiện có trên thị trường.

– Xác định vai trò của người dùng tương tác như thế nào với khách hàng. Ví dụ trong dịch vụ chia sẻ hình ảnh, khách hàng là người chụp ảnh nhưng những người dùng là người xem ảnh (gia đình, bạn bè, …)


2. Customer segment: Phân đoạn khách hàng


Ai sẽ là khách hàng của bạn ? Bạn chọn phân khúc khách hàng nào ? Bạn phải làm rõ khách hàng mục tiêu mà bạn hướng đến. Đó có thể là ở thị trường đại chúng (mass market) , thị trường ngách (niche market) hay thị trường hỗn hợp (multi –sided market).


3.Unique Value Proposition (UVP): Giá trị cốt lõi


Đây là phần quan trọng nhất của mô hình Canvas và cũng là phần khó diễn giải chính xác nhất. Bởi vì bạn phải chắt lọc những gì cốt lõi nhất của sản phẩm trong một vài từ, đồng thời nêu lên điểm khác biệt so với những đối thủ cạnh tranh. Nói cách khác, UVP là lí do để khách hàng sẽ chọn sản phẩm/ dịch vụ của bạn. Có thể đó là thiết kế độc đáo, giá cả tối ưu, vận chuyển nhanh chóng…Một số gợi ý để giúp bạn hoàn thành ô này cho bạn:

– Đặt mình vào vị trí khách hàng và nhìn sản phẩm/ dịch vụ của mình dưới góc độ của họ.

– Tập trung vào những gì khách hàng sẽ nhận được sau khi sử dụng sản phẩm của bạn.

– Điểm khác biệt, lợi thế cạnh tranh so với những đối thủ trên thị trường.


4. Solution: Giải pháp


Khi bạn đã hiểu rõ được vấn đề ở phần 1, bạn sẽ phải đưa ra những giải pháp cho những vấn đề đó. Solution là nơi bạn thể hiện tính năng, đặc điểm chính, phương pháp của bạn mà qua đó, khách hàng sẽ nhận ra được các giá trị (UVP) của sản phẩm/dịch vụ của bạn.


5. Channel: Kênh xúc tiến


Đây là cách kênh, phương thức mà bạn tiếp xúc với khách hàng của mình. Thông thường sẽ có 4 loại kênh chính mà bạn cần xác định : kênh truyền thông, kênh phân phối, kênh bán hàng, kênh hỗ trợ khách hàng. Bạn hãy nêu ngắn gọn phương thức mà bọn chọn trong từng loại kênh trên. Ví dụ truyền thông online hay offline, bán hàng riêng lẻ hay bán theo từng lô hàng…


6. Revenue Stream: Dòng doanh thu


Doanh thu của bạn sẽ được bắt nguồn từ đâu ? Lợi nhuận biên trên mỗi sản phẩm là bao nhiêu ? Bạn phải hiểu rõ được luồng lợi nhuận dự kiến thu được từ khách hàng của bạn theo tháng, quý, hay năm..


7. Cost structure: Cấu trúc chi phí


Mô tả tất cả các chi phí cần thiết để duy trì và điều hành một công việc kinh doanh. Bao gồm chi phí cố định và chi phí biến đổi.


8. Key metrics: Số liệu chính


Những con số thống kê sẽ giúp bạn nhìn nhận và đánh giá khách quan về tình hình kinh doanh của StartUp và cho biết bạn cần phải điều chỉnh gì. Bạn hãy chọn những chỉ tiêu đánh giá quan trọng phù hợp với lĩnh vực kinh doanh của mình chẳng hạn như lượt page view, lượt đăng kí mỗi ngày …


9. Unfair Advantages: Lợi thế cạnh tranh


Khái niệm này nhằm chỉ ra những thứ sẽ giúp bạn giành chiến thắng trước những đối thủ cạnh tranh. Là thứ mà không dễ để copy theo và chỉ có bạn mới có. Nó là một phần lợi thế cạnh tranh của bạn tạo nên. Đó có thể là nguồn lực về con người, công nghệ hay văn hóa công ty …


Một ví dụ về ứng dụng Lean Canvas

 



Lập kế hoạch kinh doanh cho startups với Lean Canvas

Chủ Nhật, 23 tháng 11, 2014

khởi nghiệp thất bại, Những nguyên nhân thường gặp khiến

Thiếu niềm tin trong nhóm, quá tham vọng, không tập trung…là những nguyên nhân thường gặp gây khó khăn cho startups.


Ông Kai-fu Lee, nhà sáng lập kiêm CEO của Quỹ đầu tư Innovation Works và từng là phó chủ tịch củaMicrosoft và Google tại Trung Quốc, đã đưa ra những lời khuyên dành cho các startup để giảm thiểu những nguy cơ thất bại trong những bước phát triển đầu tiên:


Thiếu tập trung: Người thông minh là người sẽ sử dụng tất cả các ý tưởng mới, nhưng một startup mạnh chỉ nên tập trung vào một hướng đi duy nhất.


Quá tham vọng: Đừng nên đặt ra nhiều mục đích, hay phải ép mình giải quyết nhiều vấn đề trong thị trường. Nên chú trọng vào phân khúc người dùng duy nhất, tìm ra hướng giải quyết mang tính cạnh tranh cao để phù hợp với phân khúc thị trường đó. Sau khi thành công với nhóm nhỏ khách hàng này, thì hãy nghĩ đến việc mở rộng ra nhóm nhiều người hơn và phát triển sản phẩm cho phù hợp với đối tượng mới này. Đây chính là cách áp dụng phương pháp Lean Startup.


Quá nhiều nhân viên: Quản lý một nhóm 3 người và quản lý một tập thể 100 người là hai việc khác xa nhau. Việc tăng thêm nhân viên và mở rộng trong một startup đòi hỏi người lãnh đạo phải có kinh nghiệm và kỹ năng quản lý thật tốt mới được.


Niềm tin trong nhóm: một đội ngũ làm việc thiếu tin tưởng nhau sẽ gặp trở ngại lớn, từ việc biên chế như thế nào cho tới việc phân chia nhiệm vụ và trách nhiệm hợp lý ra sao.


ego-is-the-number-one-reason-most-startups-fail_thumb


Hiệu suất kém: Trong môi trường “Lean Startup”, mọi người thường có khuynh hướng sao chép thành công của người đi trước. Để làm người thành công, bạn phải độc lập và nhạy bén, chẳng hạn như sản phẩm của bạn cần liên tục cải tiến. Lãnh đạo không chỉ dùng lời ăn tiếng nói hay dựa vào cái danh của người sáng lập, mà nó phải là việc bạn sẵn sàng hành động và đi trước dẫn đường.


Công nghệ chính là đích đến: Nhiều startup cho rằng đột phá công nghệ là thứ sẽ giúp họ thành công. Nhưng thực tế đã minh chứng cho thấy tầm quan trọng của những giá trị tới khách hàng chứ không phải là công nghệ dù mới hay cũ. Các quỹ đầu tư luôn yêu thích những sản phẩm mang tính giải pháp chứ không phải chỉ là công nghệ đơn thuần.



khởi nghiệp thất bại, Những nguyên nhân thường gặp khiến

Money Lover giành giải nhất Nhân tài đất Việt 2014

Lần đầu tiên giải thưởng quy mô và uy tín nhất trong lĩnh vực Khoa học, Y dược, Môi trường và Công nghệ – Nhân tài đất Việt 2014 đã được trao cho 3 sản phẩm CNTT. Mỗi giải được được nhận chiếc Cup Nhân tài đất Việt và phần thưởng bằng tiền là 100 triệu đồng. Trong lĩnh vực CNTT từ trước đến nay thường chỉ có một giải Nhất, có năm không tìm được sản phẩm để trao giải Nhất.


NTDV


Trong 10 năm qua, Nhân tài Đất Việt đã thu hút được gần 2.000 sản phẩm ở tất cả các lĩnh vực của gần 5.000 thí sinh trong và ngoài nước dự thi.  Theo đánh giá từ Hội đồng giám khảo, điều bất ngờ nhất trong lĩnh vực công nghệ thông tin năm 2014 chính là chất lượng vượt trội của các sản phẩm so với những năm trước.


Năm nay, giải CNTT Triển vọng được trao cho sản phẩm “Mạng quản lý tích hợp, dịch vụ và hạ tầng mạng chuyên nghiệp” của Công ty Cổ phần Công nghệ Nguồn mở Thế hệ mới.


Giải Hệ thống các Sản phẩm CNTT Thành công được trao cho “Chip vi điều khiển 8-bit thương mại của Việt Nam SG8V1” của Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Thiết kế Vi mạch (ICDREC) – Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.


Giải dành cho sản phẩm CNTT ứng dụng trên thiết bị di động được trao cho nhóm tác giả ZooStudio với sản phẩm “Ứng dụng quản lý tài chính cá nhân trên di động Money Lover”.


Money-Lover


Sau hơn 3 năm ra mắt, Money Lover đạt hơn 2 triệu lượt tải về trên toàn cầu, với trung bình hơn 70.000 người dùng hoạt động tích cực mỗi ngày, đứng top ứng dụng tài chính được yêu thích tại 22 quốc gia toàn thế giới. Hỗ trợ hơn 20 ngôn ngữ và 165 đơn vị tiền tệ, đây là ứng dụng tiện ích cho cuộc sống hiện đại, mọi khoản thu chi được ghi chú lại một cách nhanh chóng và tự động cập nhật cho người dùng biết những phân tích thói quan tiêu dùng của mình, từ ăn uống, học hành, mua sắm, du lịch…


Sắp tới Money Lover sẽ có những bước tiến mạnh nhằm cung cấp thêm nhiều tính năng và bổ sung giá trị cho người dùng bằng các tính năng mới như hệ thống đồng bộ dữ liệu đám mây, tính năng chia sẻ và đồng bộ đa nền tảng. Song song đó, đội ngũ phát triển Money Lover cũng có định hướng phát triển và chia sẻ ứng dụng cho thị trường Việt Nam, mong muốn góp phần mang công nghệ mới phục vụ đời sống người Việt.



Money Lover giành giải nhất Nhân tài đất Việt 2014

Thứ Năm, 20 tháng 11, 2014

Coca-Cola, Red Bull hay Heineken từ bỏ Facebook, lý do tại sao?

Với sự tăng trưởng của các mạng xã hội khác, những nghiên cứu cho thấy nhiều thương hiệu tỏ ra “chán’ Facebook.


Khi Facebook ra đời, những thương hiệu hàng đầu thế giới đã nhanh chóng nhận ra tiềm năng của mạng xã hội này. Tuy nhiên, xu hướng gần đây khiến RedBull, Heineken, hay Coca-Cola dần quay lưng lại với Facebook Like. Matthew Burns, đồng sáng lập của eBench, sẽ đưa ra lý giải về điều này.


Hiện tại, trang chính thức của Red Bull trên Facebook có tới 44 triệu người hâm mộ. Con số có vẻ lớn, tuy nhiên thống kê cho thấy chỉ có 330.000 hoạt động tương tác (interaction) được thực hiện trong tháng trước. Tính ra, có chưa tới 1 tương tác trên 100 người hâm mộ mỗi tháng.



Tại sao Coca-Cola, Red Bull hay Heineken lại từ bỏ Facebook?



 


Trong khi đó, trang chính thức của Coca-Cola trên Facebook có tới 84 triệu người hâm mộ, nhưng thậm chí mức độ tương tác trên mỗi người thích còn thấp hơn 20 lần so với Red Bull. MAC, một trong những thương hiệu công nghệ hàng đầu thế giới, chỉ có 1 tương tác trên 500 người hâm mộ mỗi tháng. Câu chuyện tương tự với thương hiệu bia nổi tiếng thế giới Heineiken, với tỉ lệ 1/180.


Những nhãn hàng lớn là những người đầu tiên nhận ra sức mạnh của Facebook, song họ cũng là người đầu tiên thấy được giới hạn của nó: “Tại sao phải trả tiền cho Facebook để tiếp cận và gặp gỡ với người hâm mộ khi chúng ta có thể đạt điều đó đơn giản hơn nhiều trên các mạng xã hội khác, và hoàn toàn miễn phí”?


Thực tế, các thương hiệu trên đã bắt đầu tiếp cận những công thức miễn phí trên mạng xã hội: MAC, RED Bull đang thâm nhập vào Youtube, mà không tính tới việc mua view.


Tìm kiếm những giải pháp thay thế khác


Coca-Cola đang nhanh chóng trở thành người dẫn đầu trên Twitter, thu hút tới 1/4 lượng người theo dõi đề cập trong số các thương hiệu nước giải khát không cồn. Red Bull thống trị nhóm nước tăng lực trên Youtube và Instagram. Với MAC, thương hiệu này tạo một danh mục tiếp cận thực sự trên mạng xã hội, hoạt động tốt trên Instagram, Pinterest và Youtube.


Thậm chí cả Burberry, được tổ chức như chỉ giành cho Facebook cách đây vài năm, cũng thu được gấp 2 lượng tiếp cận trên Instagram so với Facebook, dù lượng fan của họ ít hơn 7 lần.


Với sự tăng trưởng của các mạng xã hội khác, những nghiên cứu cho thấy nhiều thương hiệu tỏ ra “chán’ Facebook.



Tại sao Coca-Cola, Red Bull hay Heineken lại từ bỏ Facebook? (1)



Nếu một thương hiệu sử dụng mạng xã hội theo kiểu: “trả tiền cho Facebook thu hút fan, mua view trên Youtube và trải nghiệm trên những nền tảng khác,… nó sẽ chẳng khác gì các chiến dịch truyền thông kiểu cũ được “Tái chế” lại trên mạng xã hội.


Ngày nay, các thương hiệu muốn tập trung vào việc phát triển nội dung tuyệt vời trước, và triển khai nó trên nhiều nền tảng khác nhau. Đối với họ, Facebook chỉ là một trong nhiều nền tảng, một nền tảng “có thể” giúp họ tiếp cận nhiều khách hàng, nhưng lại có chi phí cao hơn so với các nền tảng miễn phí khác.


Lợi nhuận cao nhưng có bền vững?


Trong khi Facebook đang tăng trưởng lợi nhuận, các nhà phân tích cho thấy lợi nhuận không đến từ các nhà tiên phong trong kỹ thuật số. Thay vào đó, Facebook dựa vào thương hiệu chưa phát triển cộng đồng ở các nền tảng khác ngoài mạng xã hội này, và tại những thị trường mà Facebook vẫn đang là người khổng lồ không thể thay thế.


Một công cụ “lai” giữa quảng cáo cổ điển và truyền thông xã hội như Facebook vẫn còn sức cạnh tranh, nhờ vào một tỉ người dùng. Tuy nhiên, mạng xã hội này đang gặp khó khăn để cạnh tranh với các nền tảng miễn phí khác.


Những thương hiệu đang từ bỏ Facebook và dựa vào các nền tảng khác để tăng cường lợi thế của mình: Tiếp cận người hâm mộ với nội dung đủ sức châm ngòi, và tất cả đều miễn phí.


Trong khi các nền tảng khác đang chứng minh mình ngày càng hấp dẫn, Facebook cũng cần thể hiện cho mọi người thấy sự kết hợp với việc tiếp cận lượng khách hàng tiềm năng khổng lồ và truyền thông miễn phí luôn tốt hơn so với lựa chọn kênh truyền thông trả phí truyền thống. Nếu không, Facebook sẽ sớm bị các thương hiệu ghẻ lạnh.


Theo Infonet/Marketing magazine



Coca-Cola, Red Bull hay Heineken từ bỏ Facebook, lý do tại sao?

Thứ Tư, 19 tháng 11, 2014

Gọi vốn thành công cho startup – P1: Kịch bản tăng trưởng

Với một startup đã được đầu tư và đang chuẩn bị bước sang một giai đoạn phát triển mới, tưởng chừng như “lần đầu tiên” bao giờ cũng là khó khăn nhất, nhưng gọi vốn đầu tư giai đoạn tiếp theo cũng không kém gian truân.


Action.vn xin giới thiệu loạt bài chia sẻ của MarkDmitry từ Digital Media Partners, quỹ đầu tư mạo hiểm chuyên theo dõi các thị trường mới nổi của khu vực Đông Nam Á và tập trung cơ hội mở rộng trong khu vực. Họ đã tiếp xúc với hơn 600 startup khắp Đông Nam Á trong năm qua và đầu tư hơn 14.000.000 USD vào các công ty công nghệ.


Phần 1. Kịch bản tăng trưởng


Để khởi đầu cho kế hoạch gọi vốn tiếp theo, bạn cần xác định startup của mình đang phát triển theo hướng như thế nào. Các nhà đầu tư chắc chắn muốn có một sự đánh giá trung thực về việc sử dụng nguồn tài trợ trước đó, thời gian thực hiện và kết quả. Kết quả đo lường và phân tích hành vi người dùng? Bao nhiêu khách hàng đã trả tiền và sử dụng sản phẩm? Những cơ hội đến từ thị trường mới ? Hay thậm chí là những nhận biết sâu sắc về thị trường dù nó trái ngược với kỳ vọng ban đầu. Cho dù câu chuyện của bạn là gì, nó cũng phải căn cứ trên những gì đã thực sự đạt được.


Một số câu chuyện thường gặp có thể là:


“Vitamin/Painkiller”. Startup đã xây dựng được sản phẩm, đáp ứng được một phần nhu cầu thị trường và đang tiếp tục để hoàn thiện (giống như bạn có một loại vitamin muốn phát triển nó lên lên thành một loại thuốc giảm đau có công hiệu mạnh hơn, đáp ứng nhu cầu cấp thiết hơn)



 


“Layered cake”. Startup đã đạt được sản phẩm phù hợp thị trường với các mô hình kinh doanh ban đầu, đã được tối ưu hóa và phát hiện ra rằng nó không phù hợp để mở rộng vì một số lý do nào đó (có thể do đối tượng mục tiêu bị hạn chế hoặc sản phẩm chỉ thích hợp với thị trường đặc biết nên không thể mở rộng sang thị trường khác). Bổ sung thêm mô hình kinh doanh mới là việc cần làm.



 


“More of the same”. Startup đã đạt được những sản phẩm phù hợp với thị trường và cung cấp một sản phẩm được tạo ra chất lượng (khả năng mở rộng, tính bền vững, doanh thu). Câu chuyện đơn giản chỉ là nhân rộng mô hình.



 


“Bump on the road”. Startup có doanh thu và chất lượng, đã mở rộng mô hình lên, nhưng vấp phải vài trở ngại trong quá trình tăng trưởng. Cần sửa chữa hoặc loại bỏ sai lầm, ví dụ như nâng cấp nền tảng, mở rộng đội ngũ quản lý, hoặc mở rộng về mặt địa lý như một số công ty đã chạy ra khỏi một thị trường nội địa (phổ biến ở Đông Nam Á).



 


“Kill or be killed”. Startup có doanh thu và chất lượng nhưng mắc kẹt trong một trận đấu dai dẳng với đối thủ cạnh tranh. Cơ hội tăng trưởng ở đây có thể là áp đảo hoặc mua lại đối thủ cạnh tranh.



 


“Last stop”. Startup cần đảm bảo vốn cho việc hợp tác hoặc thanh lý.



 


“Pivot”. Startup không đạt được những gì đã đặt ra nhưng có một vài tài sản có thể tái sử dụng để hỗ trợ kế hoạch mới của mình.



Đây là một số câu chuyên điển hình với vô số các biến thể. Tuy nhiên, điểm chung là nó cần phải cho nhà đầu tư thấy một lộ trình rõ ràng chứ không phải là những slide trình bày về việc “sử dụng kinh phí” với các biểu đồ hình tròn thể hiện chi phí marketing, lương nhân viên hay tiền thuê văn phòng mới!


Trong làn sóng phát triển của các công ty thương mại điện tử, mệnh đề mở rộng khu vực rất thường gặp ở các startup đã có vị trí tại thị trường nội địa và đang trên con đường gọi vốn đầu tư ở vòng tiếp theo. Và cái mà nhà đầu tư quan tâm là bạn sẽ làm điều đó như thế nào. Khi mà tính bền vững của mô hình chưa được chứng minh thì sự mở rộng hoàn toàn có thể gây nguy hại cho hoạt động hiện tại cũng như quá mạo hiểm cho một dự án mở rộng tốn kém.


Một phép thử đơn giản được đưa ra như sau: nếu những người sáng lập có thể ở nước ngoài và không liên lạc email từ 2-3 tuần cho một tháng, mà hoạt động của cả bộ máy vẫn không rối tung lên thì chúc mừng, công ty của bạn đã sẵn sàng để mở rộng.



Hãy theo dõi phần 2 của loạt bài này để xem bước tiếp theo là gì?


Theo Aciton



Gọi vốn thành công cho startup – P1: Kịch bản tăng trưởng

Trung Quốc: Thị trường lớn nhất thế giới làm TMĐT như thế nào?

Theo nhiều dự đoán, Trung Quốc đã sẵn sàng trở thành thị trường online lớn nhất thế giới trong một vài năm tới.


Kích thước của thị trường thương mại điện tử Trung Quốc được dự đoán sẽ tăng hơn 3 lần trong 3 năm tới với doanh số đạt 420 tỷ USD vào 2015. Con số đó vượt hơn 20% so với dự đoán tăng trưởng của thị trường thương mại điện tử tại Mỹ trong cùng năm.


Trung Quốc có khoảng 193 triệu người thường xuyên mua sắm online, nhiều hơn bất cứ một quốc gia nào. Theo như dự đoán của Boston Consulting Group, vào năm 2015, những người tiêu dùng đó sẽ chi khoảng 1000 USD/năm để mua sắm và doanh số của thị trường thương mại điện tử sẽ chiếm 8% tổng doanh số bán lẻ toàn Trung Quốc.


Có một số yếu tố chi phối sự phát triển của ngành thương mại điện tử. Một là sự phát triển của giới trung lưu tại Trung Quốc, thành phần được dự đoán sẽ bùng nổ từ 200 triệu lên 800 triệu người trong 20 năm tới (theo Acquity Group). Sự phổ biến của các đường truyền Internet tốc độ cao/được chính phủ trợ cấp và các thiết bị di động kết nối được Internet đã mở rộng thị trường khách hàng tiềm năng lên đến 513 triệu người, chiếm 40% dân số Trung Quốc. Kết nối Internet băng thông rộng có giá khá rẻ khoảng 10 USD/tháng, so với 30 USD/tháng tại Ấn Độ và 27 USD/tháng tại Brazil.



 Giá vận chuyển và độ tin cậy được cải thiện nhiều, đặc biệt là tại các thành phố duyên hải. Theo BCG, chi phí vận chuyển tại Trung Quốc chỉ bằng 1/6 tại Mỹ. Ấn tượng nhất là một nửa các chuyến hàng vận chuyển tại đây đều xuất phát từ chợ thương mại điện tử lớn nhất Trung Quốc, Taobao của Alibaba.


Theo như nghiên cứu của Acquity Group, người tiêu dùng Trung Quốc mua sắm online vì 3 nguyên nhân chính: hàng hóa rất đa dạng, có khả năng so sánh giá giữa nhiều nhà cung cấp và sự tiện lợi.


Tuy nhiên, thương mại điện tử ở Trung Quốc vẫn là một ngành công nghiệp trẻ tuổi. Mặc dù số lượng người mua hàng online tại Trung Quốc nhiều hơn so với Mỹ nhưng chỉ 14% trong tổng dân số 1,3 tỷ người của Trung Quốc sử dụng dịch vụ trong khi 54% dân số Mỹ đều mua sắm online. Người tiêu dùng Trung Quốc cũng bị thu hút bởi các món hàng giá rẻ hơn.



 Vậy yếu tố nào khiến người tiêu dùng e ngại với thương mại điện tử? Sự tín nhiệm có vẻ là yếu tố cơ bản nhất. Cũng như trường hợp của các thị trường khác, kể cả Mỹ, trong những ngày đầu của thương mại điện tử thì người tiêu dùng luôn lo ngại về các vấn đề như gian lận thẻ tín dụng, hàng giả, hàng bị tráo đổi trong khi vận chuyển… Những vấn đề này đều được giải quyết, một phần nhờ vào sự ra đời của các dịch vụ như PayPal, Alipay… cho phép người dùng mua sắm mà không cần phải chia sẻ thông tin thẻ tín dụng với nhà bán lẻ. Ngoài ra, Alipay còn có hình thức an toàn hơn là chỉ chuyển tiền cho nhà bán lẻ một khi khách hàng đã nhận được hàng và thỏa mãn với nó.


Chính sách đổi trả hàng kém cũng ngăn cản sự phát triển của ngành này. 59% người tham gia nghiên cứu của Acquity than phiền rằng rất khó để đổi hàng khi mua hàng trực tuyến.


Và mặc dù hệ thống giao hàng đang rất phát triển tại Trung Quốc nhưng nó vẫn còn một chặng đường dài phía trước, nhất là đối với các thành phố nhỏ. Simon Counsins, CEO của Illuminant nói với Fast Company rằng: “Hàng ngàn thành phố cấp 3 và 4 không hề có hệ thống hậu cần hoặc chuỗi cung ứng để giao hàng dễ dàng trong vùng.”


Các mặt hàng may mặc là loại hàng hóa phổ biến nhất trên thị trường thương mại điện tử, chiếm khoảng ½ doanh số bán hàng online tại Trung Quốc. (Tại Mỹ, các mặt hàng may mặc chỉ chiếm 1/5 doanh số bán hàng online.) BCG nói rằng mặc dù doanh số của các sản phẩm hữu hình đang tăng lên nhanh chóng nhưng doanh số của các nội dung số lại phát triển rất chậm, chỉ chiếm khoảng 1/3 tổng doanh số online.


Những “ông lớn”


Ba công ty Internet lớn nhất tại Trung Quốc là Alibaba, Baidu và Tencent thống trị 3 thị trường khác nhau là: thương mại điện tử, tìm kiếm và tin nhắn.


Theo ước lượng của AK Kearney, đa phần giao dịch online tại Trung Quốc (85% vào 2009) là giữa người tiêu dùng với nhau. Khoảng 90% số lượng giao dịch đó được thực hiện trên Taobao của Alibaba, trang thường được mệnh danh là eBay của Trung Quốc.


Cũng như eBay, người dùng Taobao có thể mua và bàn những sản phẩm mới hoặc đã qua sử dụng với một mức giá cố định hoặc thương lượng được cũng như có thể bán qua hình thức đấu giá. Khác với eBay là đa số sản phẩm trên trang này thường là mới và Taobao cũng không tính phí đăng tin hoặc phí giao dịch – đa phần doanh thu của Taobao đến từ quảng cáo. Năm sau, công ty này sẽ thu được 716 triệu USD doanh thu trước thuế và sẽ trị giá 14,3 tỷ USD, theo như ước tính của Goldman Sachs.



 Ngành bán lẻ B2C nhanh chóng bắt nhịp phát triển online nhưng AK Kearney lại dự đoán rằng giao dịch B2C chỉ chiếm 40% thị trường vào năm 2015.


Một nửa giao dịch B2C đang được thực hiện tại Taobao Mall or Tmall, một sản phẩm khác của Alibaba. Tại đó, 50,000 nhà bán lẻ và 200,000 thương hiệu, bao gồm các thương hiệu lớn của phương Tây như Nike và Gap, đều đã lập cửa hàng. Không như Taobao, Tmall sẽ tính phí giao dịch. BCG ước tính có khoảng 16 tỷ USD được giao dịch tại Tmall vào năm 2011 và con số đó sẽ gấp đôi trong năm nay.


Taobao và Tmall chiếm 81% giao dịch online trong năm 2010. Trung bình có 48,000 sản phẩm được bán trong 1 phút trên Taobao vào năm đó, vượt xa con số của 5 nhà bán lẻ truyền thống lớn nhất tại Trung Quốc cộng lại.


Hơn 60% người mua trên Taobao và Tmall dùng Alipay để trả phí giao dịch. 20% giao dịch trên các trang B2C cũng dùng Alipay để làm công cụ thanh toán.


Những “ông lớn” khác trong ngành còn có 360buy.com, một nhà bán lẻ thường được mệnh danh là Best Buy của Trung Quốc. Đây là trang B2C lớn thứ 2 tại Trung Quốc với doanh số khoảng 5 tỷ USD trong năm 2011. Nhiều thương hiệu khác thì tự lập shop online để bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng.


Vai trò của phương tiện truyền thông xã hội



Bởi vì người tiêu dùng Trung Quốc thường không tin tưởng quảng cáo và tin tức nên các khuyến nghị từ các nhận xét trực tuyến và bạn bè trên mạng xã hội rất có trọng lượng.


95% người dùng Internet sống ở các thành phố cấp 1, 2 và 3 tại Trung Quốc dùng ít nhất 1 mạng xã hội theo như một nghiên cứu của McKinsey vào tháng 4. 91% người tham gia nghiên cứu nói rằng họ có dùng ít nhất 1 mạng xã hội trong 6 tháng gần nhất so với 67% tại Mỹ và 30% tại Nhật. Họ dành khoảng 46 phút một ngày trên các trang mạng xã hội, so với 37 phút ở Mỹ và 7 phút ở Nhật.


Theo BCG hơn 40% người tiêu dùng online tại Trung Quốc tiêu thụ và đăng bài nhận xét về một sản phẩm online – tại Mỹ, co số đó tăng gấp đôi.


Tại sao người tai lại không tin tưởng quảng cáo? Calvin Soh, cựu trưởng phòng sáng tạo tại Publicis Asia cho biết trong Asia’s Fashion Summit rằng: “Quảng cáo thường liên quan đến các khẩu hiệu vận động (của chính phủ). Trong khi các phương tiện truyền thông cá nhân lại đại diện cho những cá thể riêng biệt.”


Nếu so sánh về lượng người dùng, Qzone (MySpace của Trung Quốc) dẫn đầu với 536 triệu người, theo sau đó là Tencent Weibo với 310 triệu người và Sina Weibo với 250 triệu người (số liệu tháng 11/2011 của wearesocial.sg). Renren, một trang theo mô hình Trung Quốc và rất nổi tiếng trong giới học sinh, có 137 triệu người dùng. Kaixin, một trang khác theo mô hình Facebook và nổi tiếng trong giới văn phòng, có 116 triệu người dùng. McKinsey nhận thấy rằng đối tượng người dùng ở các trang cũng khá đa dạng, ví như người dùng thích Sina Weibo thường có thu nhập cao hơn và sống ở các thành phố cấp 1.


Nhưng McKinsey nói rằng nhiều công ty ở Trung Quốc vẫn chưa tận dụng hết các phương tiện truyền thông xã hội bởi người lãnh đạo chúng không hề quen thuộc với các nền tảng xã hội này. Nhiều công ty còn thất bại trong việc khai thác dữ liệu của người dùng trên các nền tảng đó và nhiều số khác lại không hề biết phải làm gì với dữ liệu họ thu thập được.


Sự thâm nhập của quốc tế



 Với các dự đoán tăng trưởng tích cực của thị trường bán lẻ Trung Quốc thì không lạ gì khi mà các thương hiệu ngoại quốc đều đang dồn dập đầu tư vào khu vực này. Làn sóng đầu tư bắt đầu vào đầu những năm 80 khi mà các thương hiệu thể thao và thời trang như Nike, Adidas, LVMH và chuỗi cửa hàng thức ăn nhanh như Yum!, McDonalds đều dần xâm nhập thị trường Trung Quốc.


Trong một báo cáo về thời trang Trung Quốc, BCG mô tả rằng thị trường tiêu dùng tại đây vào những năm 80 không hề tinh tế nhưng lại có nhu cầu rất cao về các thương thiệu thời trang lớn. Các thương hiệu thời trang thể thao đặc biệt thành công vào thời điểm này khi mà vào năm 2008, khoảng 20-25% người tiêu dùng Trung Quốc đều có các loại quần áo thể thao đắt giá.


Các thương hiệu cao cấp ngoại quốc cũng có chuyển biến tốt nhất là các mặt hàng may mặc, phụ kiện, làm đẹp, xe hơi và đồng hồ. Julie Harris, Giám đốc quản lý toàn cầu của WGSN, cho biết rằng: “Người ta không có nhà để đầu tư tại Trung Quốc; các ngôi nhà thường nhỏ và không có đủ không gian để mời bạn bè tới chơi và thể hiện sự giàu có. Do đó, sự giàu có được thể hiện thông qua những gì họ mang, mặc trên người.”


Các nhãn hiệu trung cấp như Gap, Abercrombie & Fitch gặp khá nhiều khó khăn tại Trung Quốc. Gap chỉ có 15 cửa hàng tại đây. Angelia Teo, Giám đốc nội dung của WGSN tại Châu Á-Thái Bình Dương nói rằng: “Không hề có chỗ đứng cho các thương hiệu trung cấp. Người Trung Quốc rất am hiểu sự cao cấp, các sản phẩm tốt nhất trên thế giới và giá trị của chúng. Thương hiệu cũng rất quan trọng đối với họ vì thế Abercrombie & Fitch hoặc Hollister đều không hề hấp dẫn.”


Kết


Mullen nói rằng các công ty Trung Quốc nên tập trung vào thương mại điện tử dù họ đang thành lập các tập đoàn quốc tế hoặc chỉ là những startup bán lẻ đơn thuần. “Nếu bạn nhìn vào quá trình làm giàu tại Trung Quốc, 75% người làm giàu đều đến từ khoảng 200 thành phố cấp 2 và 3. Vào thời điểm này, thử thách lớn nhất là làm sao đứng vững và tạo được sức ảnh hưởng trong thị trường đầy cạnh tranh này.”


Mullen cho rằng những khoảng đầu tư đó có thể không tạo ra được kết quả gì trong thời gian ngắn nhưng điều đó sẽ thay đổi khi mà thị trường bán lẻ online phát triển.


Một điều chắc chắn là thị trường thương mại điện tử Trung Quốc hoàn toàn khác với thị trường của Mỹ.



Trung Quốc: Thị trường lớn nhất thế giới làm TMĐT như thế nào?

Thứ Hai, 17 tháng 11, 2014

Con đường lận đận của Ví điện tử tại Việt Nam

Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử, ví điện tử ra đời giúp người tiêu dùng có thể lưu trữ thông tin cá nhân và mua bán hàng hóa nhanh chóng.


Theo báo cáo của Công ty nghiên cứu thị trường Gartner, tổng giá trị thanh toán qua di động trên toàn cầu năm ngoái lên tới 235,4 tỷ USD, tăng 45% và dự báo tiếp tục tăng lên 325 tỷ USD vào năm nay. Trong đó, nhu cầu thanh toán phổ biến nhất là mua hàng trực tuyến.


Thanh toán qua ví điện tử, người mua sau khi chọn được món hàng chỉ mất 3-5 phút nhập lệnh, chọn loại tài khoản cần thanh toán có sẵn trong các “ngăn” ví điện tử rồi nhấn nút là đã xong bước trả tiền. Người bán cũng biết được tiền đã được người mua chuyển sang “ví” của mình và được các ngân hàng đảm bảo.


Ra đời tại Việt Nam từ năm 2008 trong bối cảnh thị trường thương mại điện tử cần những công cụ thanh toán phù hợp, ví điện tử được kỳ vọng giúp người mua và người bán kết nối nhanh chóng với nhau. Trong giai đoạn 2009 – 2013, các website tích hợp thanh toán trực tuyến tăng hơn 30 lần, trong đó có sự góp mặt của ví điện tử. Nhưng sau 5 năm phát triển, ví điện tử vẫn lận đận tìm chỗ đứng trên thị trường. Tính đến hết năm 2013, cả nước có trên 1,84 triệu ví điện tử, tổng lượng giao dịch trong năm đạt 23.350 tỷ đồng (khoảng 1,1 tỷ USD). So với quy mô của thị trường thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam, con số này còn rất khiêm tốn, vì chỉ tính riêng thị trường thẻ tổng doanh số giao dịch nội địa đã lên tới 1,1 triệu tỷ đồng (52 tỷ USD).


Miếng bánh của thị trường còn không dễ nuốt bởi khách hàng thường chọn những thương hiệu uy tín nên những doanh nghiệp mới lại càng chật vật. Người khổng lồ PayPal hơn 15 năm nay vẫn dẫn đầu thị trường toàn cầu, dù có rất nhiều ví điện tử ra đời đã tuyên chiến giành lại vị trí này. Hay ở Trung Quốc, với sự bành trường của Taobao, ví điện tử Alipay đã chiếm đến 60% thị phần.


Bên cạnh đó, hành lang pháp lý cho hoạt động thanh toán ví điện tử chưa ra đời khiến người tiêu dùng e dè bởi không có chế tài để bảo vệ khi xảy ra các hành vi gian lận, tranh chấp.


Tính bảo mật và lạ lẫm về thương hiệu, công nghệ cũng là một rào cản khiến người dùng chưa quan tâm đến dịch vụ này. Ví dụ nhiều cửa hàng của Starbucks trên thế giới cho phép khách hàng gọi đồ uống qua ứng dụng “thực đơn điện tử”, sau đó cho họ thanh toán ngay qua ứng dụng ví điện tử trên thiết bị di động. Tuy nhiên ở Việt Nam, sự kết nối này vẫn còn thiếu.


Một số ví điện tử phổ biến ở Việt Nam và thế giới


paypal


Quốc tế:


• PayPal: Được sáng lập năm 1998 tại Mỹ bởi Max Levchin và Peter Thiel, công ty nắm giữ thị phần thanh toán qua di động lớn nhất toàn cầu, đạt doanh thu 6,6 tỷ USD năm 2013.


• Alipay: Thuộc Alibaba Group, ra đời năm 2004, thống lĩnh thị trường thanh toán qua điện thoại di động tại Trung Quốc với hơn 100 triệu người đăng ký sử dụng tính đến cuối năm 2013.


• Google Wallet: Ra mắt tại Mỹ vào tháng 9/2011, thu hút được khoảng 10 triệu lượt tải về từ Google Play và có 500 triệu USD được giao dịch tại Mỹ trong năm 2012 với khoảng 12,8 tỷ USD trên toàn cầu.


• Passbook: Apple công bố năm 2012 tại Mỹ, người dùng có thể sử dụng iPhone để quét lại hình ảnh, mã vạch của các thẻ mua hàng, vé máy bay, vé xem phim…, biến chiếc điện thoại thành một dạng ví điện tử.


• Paypass: Ra đời năm 2012 tại Mỹ bởi hãng phát hành thẻ lớn thứ hai thế giới MasterCard, đã phát hành ứng dụng hỗ trợ PayPass cho Android, cho phép thanh toán trên điện thoại mà không cần đăng nhập thông tin thẻ, hãng cũng đã ký thỏa thuận hợp tác với 30.000 đại ký và nhiều ngân hàng danh tiếng.


Trong nước:


• BaoKim: công ty con của Công ty Cổ phần Vật Giá Việt Nam


• Ngân lượng: một sản phẩm của PeaceSoft Solutions Corporation


• VnMart: công ty cổ phần Giải pháp Thanh toán Việt Nam (VNPay)


• Payoo: công ty cổ phần DV Trực tuyến Cộng đồng Việt (VietUnion)


• MobiVí: công ty cổ phần Hỗ trợ DV Thanh toán Việt Phú


• MoMo: ví tiền điện tử trên điện thoại di động của VinaPhone


• VinaPay: công ty cổ phần Công nghệ Thanh toán Việt Nam


• Smartlink: Công ty cổ phần DV Thẻ Smartlink


• M-Service: Công ty cổ phần DV Di động Trực tuyến



Con đường lận đận của Ví điện tử tại Việt Nam

Chủ Nhật, 16 tháng 11, 2014

Những bức ảnh quý về Steve Jobs chưa từng được công bố

Nhiều bức ảnh quý và câu chuyện thú vị phía sau về Steve Jobs, “huyền thoại” của giới công nghệ, đã được nhà làm phim tài liệu Doug Menuez ghi lại và công bố.


Đó là năm 1985, khi Apple buộc Steve Jobs rời khỏi công ty ông sáng lập. Ông bắt đầu phát triển máy tính NeXT cùng một số đồng nghiệp cũ. Đây là cỗ máy mà Tim Berners – Lee và Robert Cailliau đã sử dụng để viết phần mềm máy chủ web đầu tiên và sau đó là World Wide Web. Jobs muốn thay đổi ngành giáo dục bằng các siêu máy tính. Ross Perot mời ông cơm trưa và “rót” 20 triệu USD đầu tư cho công ty. Rất ít người biết khi ấy, Jobs đang đứng trước cuộc cách mạng kỹ thuật số.


Nhà báo ảnh Doug Menuez được phép ghi lại những ngày tuổi trẻ của Jobs trong suốt quãng thời gian từ năm 1985 đến 2000 tại Silicon Valley. Ông đã xuất bản một cuốn sách có tên “Fearless Genius” và bắt đầu viết nhiều câu chuyện trên Storehouse về trải nghiệm cá nhân của mình với “huyền thoại” của giới công nghệ.


Dưới đây là một số tấm ảnh cùng câu chuyện phía sau được tác giả Menuez chia sẻ trên trang Storehouse, tất cả đều chưa từng công bố trước công chúng:




Steve Jobs bắt đầu xây dựng công ty mới, NeXT và muốn chế tạo siêu máy tính có khả năng thay đổi ngành giáo dục. Kế hoạch của ông là đặt sức mạnh của một máy tính trung ương vào chiếc hộp nhỏ gọn, giá phải chăng để sinh viên sử dụng được.





Ngày Ross Perot trao cho Steve Jobs 20 triệu USD. Fremont, California, 1986.


Steve Jobs là người bán hàng kiệt xuất, hiểu rõ sức mạnh của sự sắp đặt. Điều đó thể hiện rõ ràng hơn bao giờ hết trong bữa trưa mà ông chuẩn bị cho Ross Perot và ban Giám đốc NeXT ngay giữa căn nhà kho bỏ hoang mà ông định biến thành nhà máy NeXT. Perot bị ấn tượng bởi bài thuyết trình và đồng ý đầu tư 20 triệu USD, trở thành thành viên quan trọng của NeXT và mang đến phao cứu sinh cho công ty non trẻ.





Steve Jobs cân nhắc câu trả lời. Palo Alto, California, 1986.


Giám đốc thiết kế NeXT, Eddie Lee cho biết Steve có kiểu cười mỉa mai khi ông tức giận. Đầu của ông sẽ cúi xuống và cười nửa miệng một cách gượng gạo, khi đó, bạn biết bạn sẽ bị “nghiền nát”.





Steve Jobs phác họa cuộc cách mạng số. Sonoma, California, 1986.


Steve lên danh sách công việc phải làm cho nhóm trong cuộc họp tại khu nghỉ mát Sonoma. Nó bao gồm những gì cần có để chuyển từ analog sang kỹ thuật số. Thực tế, mọi thứ trên thế giới chưa được số hóa sẽ sớm chuyển đổi do cuộc cách mạng đã ở ngay phía trước.





“The Shit List”. Sonoma, California, 1987.



Danh sách việc phải làm của Steve trong một buổi brainstorming liệt kê ra các thách thức kỹ thuật mà nhóm phải giải quyết. Khi chế tạo máy tính NeXT, Steve muốn đáp ứng được các yêu cầu mà Paul Bert, người thắng giải Nobel, đặt ra để có thể phát triển trạm làm việc giá rẻ cho giáo dục có bộ nhớ hơn 1 megabyte, màn hình 1MP, tốc độ 1 megaflop. Ngày nay, chúng ta đã đo lường bằng gigabytes và gigaflops song thời điểm đó, đây đều là trở ngại lớn.




Steve Jobs, Apple, Next computer

Steve Jobs xem xét nguyên mẫu case máy tính NeXT. Santa Cruz, California, 1987.


Đây là hình ảnh hiếm gặp của Steve Jobs khi ông đang xem xét bề mặt của vỏ magie anode cho máy tính NeXT cùng Ken Haven, Giám đốc, kỹ sư cơ khí. Hợp kim magie nhẹ và bền song sự phức tạp trong khâu sản xuất làm đội giá và trì hoãn sản phẩm. Giám đốc Thiết kế Eddie Lee mô tả sự tương tác với Steve là một trong những trải nghiệm quý giá nhất đời. Dù khó khăn, ông không bao giờ để bụng vì luôn nghĩ đó là điều cần thiết để “làm mọi thứ tốt hơn”.




Steve Jobs, Apple, Next computer

Steve Jobs giả vờ làm… con người. Menlo Park, California, 1987.


Steve không phải dạng người dễ thư giãn. Vì thế, rất ngạc nhiên khi chứng kiến Steve đá quá bóng này trong buổi picnic của công ty. Ông dường như đã có thời gian vui vẻ nhưng nó giống với màn biểu diễn để khích lệ tinh thần cả nhóm hơn.




Steve Jobs, Apple, Next computer

Steve Jobs quay về từ chuyến thăm nhà máy. Fremont, Californica, 1987.


Dù Steve Jobs đặc biệt thô lỗ, cục cằn và thi thoảng hằn học, ông cũng là người vui vẻ với nụ cười “thả ga” và năng lượng tràn ngập. Trong những ngày đầu của NeXT, ông luôn háo hức khi làm việc. Tuy vậy, không có nhiều khoảnh khắc thả lỏng như tấm ảnh này, khi Steve vừa trở về từ chuyến thăm nhà máy mới cùng nhân viên công ty trong chiếc xe chở học sinh màu vàng cũ.





Steve Jobs đang suy nghĩ. Santa Cruz, California, 1987.


Steve là người làm công nghệ, biên tập viên, thợ săn lạnh lùng và doanh nhân lọc lõi, song ông cũng có trí tuệ của nghệ sỹ, luôn mơ mộng nhiều cách thức mới để kết hợp công nghệ có sẵn, tạo ra thứ hoàn toàn mới mẻ. Dù số phận của bộ phận phần cứng không tốt lành, ông chưa bao giờ bỏ cuộc. Sự đổi mới mà ông có được trong suốt những năm tháng tại NeXT có thể là chìa khóa cho cuộc trở về ngoạn mục với Apple.


Thứ Sáu, 14 tháng 11, 2014

Nokia sẽ không bao giờ quay lại thị trường di động

CEO mới của Nokia đã khẳng định hãng không ra mắt điện thoại trong tương lai. Điều này dập tắt hoàn toàn các đồn đoán trong thời gian qua.


Tại cuộc họp diễn ra vào hôm qua (14/11) ở Anh, Tổng Giám đốc điều hành mới của Nokia, Rajeev Suri, đã phát biểu về tương lai của hãng này sao khi bán lại cho Microsoft mảng kinh doanh điện thoại.




Nokia sẽ không bao giờ quay lại thị trường di động
Ký nguyên di động Nokia đã kết thúc sau khi họ bán mảng mobile cho Microsoft.

Trước tiên, một tin buồn đối với hàng triệu người hâm mộ thương hiệu di động đến từ Phần Lan, Nokia không hề có kế hoạch quay lại thị trường điện thoại như một số đồn đoán trong thời gian gần đây. “Chúng tôi không tìm cách quay lại tiếp cận người dùng với thiết bị di động”, CEO Rajeev Suri khẳng định.


Tuy nhiên, ông lại để ngỏ việc thương hiệu Nokia sẽ được sử dụng vào một lĩnh vực nào đó, cũng như khả năng cấp phép sử dụng thương hiệu này cho công ty khác. Rajeev Suri  nói thêm rằng trong tương lai dài hạn, tên gọi Nokia “sẽ trở lại với người dùng”.


Khẳng định của Nokia là dấu chấm hết cho kỳ vọng quay lại thị trường di động của hãng này, cũng như xóa bỏ các tin đồn cho rằng Nokia đang dồn sức chuẩn bị tung ra thị trường smartphone chạy Android.


Quá trình tiến hóa của nhạc chuông Nokia


Với những mảng kinh doanh khác, CEO Nokia cho biết sẽ không có ứng dụng HERE độc lập cạnh tranh với Google Maps, thay vào đó nó sẽ được cấp phép cho nên thứ ba như Amazon, Microsoft hay Yahoo!.


Rajeev Suri hy vọng rằng cả 3 mảng kinh doanh hiện tại của tập đoàn (Hạ tầng mạng, Công nghệ và Dịch vụ bản đồ) sẽ tăng trưởng và sớm đem đến lợi nhuận.


Như vậy, kỷ nguyên của một huyền thoại trong làng di động đã thật sự chấm dứt.


Sau thời điểm quý 4 năm 2016, nếu xuất hiện điện thoại thông minh Nokia đi chăng nữa thì cũng chỉ là sản phẩm của một công ty đã được hãng này cấp phép sử dụng thương hiệu Nokia mà thôi.



Nokia sẽ không bao giờ quay lại thị trường di động

iPhone 6 được ra mắt chính thức tại thị trường Việt Nam

Đây là sự kiện giới thiệu iPhone đầu tiên tại Việt Nam, nhưng do nhà phân phối trong nước tổ chức.


Sáng 14/11, buổi giới thiệu iPhone 6 đã diễn ra tại TP.HCM. Sự kiện này không phải của Apple, mà được FPT Trading, một nhà phân phối trong nước tổ chức.


Đúng như những thông tin trước đó, iPhone 6 do FPT phân phối có giá từ 17,799 triệu đồng. iPhone 5S cũng giảm giá xuống còn 14,999 triệu và iPhone 4S chỉ còn 8,399 triệu đồng. Tuy giá cao hơn so với hai nhà mạng, iPhone 6 của FPT đi kèm gói bảo hành một đổi một trong 12 tháng, tính từ ngày kích hoạt máy.


iPhone 6 và iPhone 6 Plus phiên bản chính hãng dành cho thị trường Việt Nam.


Máy có thiết kế tương tự như bản quốc tế, chỉ khác ở phụ kiện và tài liệu hướng dẫn.


Sự kiện thu hút sự chú ý của giới truyền thông và các nhà bán lẻ. Trong ngày 13/11, sự kiện dành riêng cho các đại lý cũng đã được tổ chức tại TP.HCM


Song song với sự kiện do FPT tổ chức, một đại lý khác của Apple tại Việt Nam cũng chính thức báo giá iPhone 6 với mức khởi điểm thấp hơn vài trăm ngàn đồng.


Ngay sau sự kiện, iPhone 6 và 6 Plus cũng được FPT đưa lên kệ rộng rãi trên toàn quốc.


Theo Zing news.



iPhone 6 được ra mắt chính thức tại thị trường Việt Nam

Thứ Năm, 13 tháng 11, 2014

Vinabook – Bao giờ thay đổi?

Vinabook.com thuộc công ty MeKongCom – công ty được IDG Ventures Vietnam đầu tư vào năm 2007. Kể từ đó đến nay, Vinabook không có nhiều sự thay đổi, nếu có chăng đi nữa, cũng chỉ là một số chức năng cần phải có để hòa nhập với thời cuộc : thanh toán trực tuyến, sách hot mỗi ngày.


vinabook


Song hành cùng Golbook.com, Vinabook.com nhanh chóng trở thành một trong những người đi trước kinh doanh bán sách trên mạng. Với vị thế đi đầu, Vinabook có lẽ đã ngủ quên quá lâu trên “chiến thắng”, thỉnh thoảng chỉ cựa mình nhưng không vươn vai thay đổi được. Nỗi lo của Vinabook chỉ thực sự bắt đầu khi Tiki.vn xuất hiện. Tiki.vn như một anh lính mới toanh toanh nhưng dũng mãnh, chiến đầu với ông lớn Vinabook vốn đang thống trị mảnh đất màu mỡ và tiềm năng chỉ bằng một vũ khí chiến lược duy nhất : Dịch vụ khách hàng.

Baby Me, dự án khởi nghiệp của ông bố đơn thân tranh tài thế giới

Từ những khó khăn và thử thách khi vợ qua đời, Trình Tuấn đã phát triển ra ứng dụng babyMe để giúp các bà mẹ tham khảo thông tin và kiến thức chính xác, tin cậy và đúng thời điểm.

babyMe: ứng dụng công nghệ giải quyết vấn đề sức khỏe mẹ và bé.


Từ những khó khăn và thử thách trong hành trình nuôi con sau khi người vợ đột ngột qua đời. Nhận thấy có nhiều bà mẹ trẻ khác cũng gặp phải vấn đề thiếu kiến thức và kinh nghiệm chăm con.


Mặt khác phải đối diện với sự khác biệt phương pháp nuôi con với bậc cha mẹ đi trước, và đặc biệt là ngập lụt giữa một đống thông tin hỗn loạn trên Internet.



Từ đó ông bố đơn thân Trình Tuấn nảy ra ý tưởng làm một ứng dụng để giúp các bà mẹ tham khảo thông tin và kiến thức chính xác, tin cậy và đúng thời điểm với tên gọi là babyMe.


babyMe có các tính năng như Học làm mẹ; Theo dõi bé; Lưu lại cảm xúc; Chia sẻ khoảnh khắc; Chăm sóc yêu thương; Dạy con điều hay.


Ngay sau đó, babyMe đã tiến hành tham gia cuộc thi Unicef Mobile Hackathon 2013, đồng thời ứng dụng này được phát triển thêm hệ thống nhắn tin SMS cho phụ nữ ở nông thôn, website quản lý cho nhân viên y tế địa phương.




UNICEF thấy rằng việc sử dụng công nghệ di động có thể giúp nâng cao chất lượng y tế cộng đồng đối với sức khoẻ bà mẹ và trẻ em. Tại Việt Nam, nhận thấy tiềm năng ứng dụng để giải quyết được các vấn đề khó khăn về y tế cộng đồng liên quan tới sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, Unicef đã trao Giải thưởng Phát triển cho babyMe ở chủ đề “Hành trình sự sống 1.000 ngày”.


babyMe tiếp tục tham gia Hội nghị khởi nghiệp thế giới


Được đánh giá cao về mặt ý nghĩa và giá trị cho cộng đồng, cộng với niềm đam mê và dẫn thân của các đồng sáng lập. Tháng 9/2014 vừa qua, babyMe tiếp tục chiến thắng tại cuộc thi Demo Day 2014, giành tấm vé duy nhất đại diện Việt Nam tranh tài cùng các dự án đến từ 40 quốc gia tại Hôi nghị khởi nghiệp thế giới (Startup Nations Summit 2014) diễn ra ở Seoul – Hàn Quốc.


Tại đây, babyMe không chỉ có cơ hội để giới thiệu về dự án của mình, giới thiệu về cộng đồng khởi nghiệp tại Việt Nam ra cộng đồng thế giới. Mà còn là cơ hội để kêu gọi sự quan tâm tới lĩnh vực liên quan tới sức khoẻ bà mẹ và trẻ em. Công nghệ không chỉ mang tới sự tiện nghi thoải mái cho con người, mà có thể mang lại những cơ hội sống cho trẻ em – thế hệ tương lai của nhân loại. Mỗi cơ hội sống là một điều kỳ diệu xoá tan những nỗi đau mất mát cho mỗi gia đình.


Hiện babyMe đang tranh tài ở hình thức bình chọn Online và hình thức này sắp kết thúc trong vài ngày tới, nhưng ứng dụng đang gặp khó khăn khi chưa được nhiều người quan tâm. Chính vì thế, để giúp cho babyMe có thứ hạng cao hơn, mọi người có thể vào bình chọn cho ứng dụng tại địa chỉ: http://www.startupnations2014.com/bbs/board.php?bo_table=g02_04_02.


Việc bình chọn rất đơn giản, người dùng chỉ cần dùng tài khoản Google hay Facebook đăng nhập vào trang web và tiến hành chọn Vote cho ứng dụng BabyMe



(Theo Lê Mỹ – ictnews.vn)



Baby Me, dự án khởi nghiệp của ông bố đơn thân tranh tài thế giới

Nhà sáng lập LinkedIn: “Hãy có niềm tin nhưng đừng hoang tưởng”

Reid Hoffman được coi là một trong những người thành công nhất tại Thung Lũng Silicon. Ông là người sáng lập Linkedin, mạng xã hội lớn và chuyên nghiệp nhất có giá trị lên đến 28 tỷ đô la Mỹ.


Reid Hoffman


Reid đã từng là một trong những thành viên đầu tiên của PayPal, nơi ông làm phó chủ tịch. Ông còn là người đồng sáng lập Socialnet.com, một trong trang mạng xã hội đầu tiên. Và không thể không kể đến các khoản đầu tư của ông vào Facebook, Flickr, Digg, và Zynga, và các công ty khác.


Reid Hoffman đã có một bài thuyết trình 45 phút có tiêu đề “Làm thế nào để trở thành một nhà sáng lập vĩ đại” tại Stanford, với một số điểm nổi bật trong đó:


1. Mọi người nghĩ nhà sáng lập lớn thường là những “siêu nhân”, người tuyệt vời ở tất cả mọi thứ. Ví dụ cổ điển là Steve Jobs, Bill Gates, Elon Musk, Mark Zuckerberg, Jeff Bezos…


Nhưng thực tế không phải vậy. Nhà sáng lập là những người phải đối mặt với đủ các thể loại “đau đầu”, và thứ họ cần đó là một vài kỹ năng nổi trội để giải quyết vấn đề và nâng cao khả năng cạnh tranh.


2. Thành lập và vận hành một công ty ở bất cứ lĩnh vực nào cũng cần rất nhiều những kỹ năng, chắc chắn không ai có thể có đủ từng đó, vì thế mà ta không thể làm một mình.


Thông thường, 2 đến 3 người cùng làm việc sẽ tốt hơn nhiều với việc làm môt mình. Mọi người sẽ có thể bù đắp những thiếu sót của nhau. Tất nhiên để làm việc được thì sự tin tưởng là vô cùng quan trọng.


3. Nơi bắt đầu cũng là một yếu tố quan trọng. Địa điểm tốt cho startups là nơi có mạng lưới, hệ thống tốt và phù hợp với sản phẩm bạn đang làm nhất.


4. Theo trào lưu hay đi ngược lại trào lưu? Hãy tự hỏi vì sao ý tưởng mà bạn nghĩ là hay ho lại không ai muốn làm? Nếu thực sự bạn tin tưởng vào điều đó và chắc chắn nó sẽ trở thành xu thế thì đừng ngại trở thành “kẻ đi ngược lại trào lưu”


5. Tầm nhìn cần được bám sát với những dữ liệu thực tế và nó có thể thay đổi dựa vào dữ liệu/con số thu thập được.


6. Bảo thủ và Linh động? Bạn sẽ cần đến cả hai. Hãy kiên định với định hướng của mình nhưng cũng cần lắng nghe dữ liệu và các yếu tố quan trọng khác.


7. Khi mọi thứ đi vào khó khăn, không có nghĩa là bạn phải dừng lại. Paypal, Linkedin, và Airbnb đều có những khoảnh khắc đen tối. Hãy suy nghĩ những gì cần phải được thực hiện để khắc phục vấn đề và hành động ngay lập tức.


8. Muốn thành công hải là người biết chấp nhận rủi ro. Đương nhiên nó không có nghĩa là bất chấp tất cả, bạn phải có đầu óc tỉnh táo và chỉ thông minh để mạo hiểm.


9. Nên tập trung vào tầm nhìn dài hạn hay một vấn đề cụ thể trong ngắn hạn? Bạn phải luôn cân bằng giữa chúng. Nếu bạn xử lý được những gì ngay trước mắt, chúng sẽ đánh gục bạn khi chưa kịp chạm đến đích.


10. Trong những ngày đầu của Linkedin, mọi người nghĩ rằng ý tưởng của tôi là điên rồ, nhưng tôi biết chính xác làm thế nào để phát triển nó, để chứng minh họ sai.


11. Một nhà sáng lập không chỉ giữ vững niềm tin của bản thân, mà còn phải đủ thông minh để lắng nghe những lời chỉ trích và phản hồi tiêu cực.


12. Nên tập trung vào các yếu tố nội bộ (xây dựng sản phẩm, bỏ qua đối thủ cạnh tranh) hay yếu tố bên ngoài bên ngoài (tuyển dụng và thu thập thông tin)? Một lần nữa, câu trả lời là cả hai. Nhà sáng lập cần có khả năng linh hoạt trong tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến công ty của mình.


13. Tình thế khó khăn khác: Tự tay làm hay tuyển người ủy thác công việc. Một lần nữa, bạn cần phải làm cả hai. Tìm người có thể đảm nhận tốt nhất vai trò của họ nhưng hãy bảo đảm rằng bạn hiểu rõ nhất công việc đó.


14. Một kỹ năng không thể thiếu đó là sự nhạy bén để nhận biết mình có đang đi đúng hướng hay không. “Hãy có niềm tin nhưng đừng hoang tưởng về khả năng và con đường bạn đang đi”.


 



Nhà sáng lập LinkedIn: “Hãy có niềm tin nhưng đừng hoang tưởng”

Thứ Tư, 12 tháng 11, 2014

Thử nghiệm mPoS, giải pháp thanh toán tiền kết nối với điện thoại của Việt Nam

Khi đi mua đồ ở các cửa hàng hay trung tâm thương mại, rất nhiều người trong chúng ta có thói quen sử dụng thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ hay thậm chí là thẻ ATM thay cho tiền mặt vốn mang nhiều rủi ro. Mỗi lần trả tiền thì thường bạn sẽ phải đưa thẻ cho nhân viên cửa hàng mang vào bên trong để cà thẻ (ở Việt Nam, các nước khác thì ít bị) có thể bị lộ thông tin không tốt về sau. Có một cách giải quyết là dùng máy cà thẻ di động do ngân hàng cung cấp nhưng nó lại quá cồng kềnh và lỗi thời. mPoSvừa đưa ra một giải pháp cho phép chúng ta thanh toán nhanh chóng và tiện lợi hơn so với các phương thức truyền thống, nó sẽ kết nối với điện thoại để truyền tải thông tin về máy chủ ngân hàng, cho phép bạn xài gần như tất cả các loại thẻ đang có trên thị trường, từ thẻ Visa, Master debit, credit loại từ cho đến thẻ chip và đặc biệt là thẻ ATM vốn rất ít được hỗ trợ. Nếu bạn đang xài thẻ JCB thì an tâm là được hỗ trợ còn Amex thì chưa có.




Hệ thống thanh toán của mPoS là một giải pháp trọn gói, tức bạn chỉ cần mua thiết bị về và đăng ký tài khoản là đã có thể sử dụng thành công, không cần làm thêm bất cứ điều gì, mPoS sẽ xử lý phần còn lại với ngân hàng.


Khi dùng thì chúng ta sẽ có 2 lựa chọn: thiết bị cắm vào cổng tai nghe 3.5mm trên điện thoại hoặc đầu đọc thẻ kết nối qua Bluetooth. Thiết bị đầu tiên rẻ hơn, 1,49 triệu đồng, đọc được thẻ từ loại cũ và thẻ chip kiểu mới còn thiết bị Bluetooth thì 2.49 triệu, cũng tương tự nhưng hỗ trợ thêm NFC để dùng điện thoại hoặc thẻ có chạm sau này (hiện tại ở Việt Nam thì mình biết Eximbank có thẻ chạm, không rõ các ngân hàng khác có chưa). Loại dùng Bluetooth cũng an toàn hơn vì nó có bàn phím số nhập mã PIN, không lo trường hợp điện thoại bị keylog ghi lại mã pin người dùng.


Dù là thiết bị nào thì cách sử dụng cũng như nhau, chủ cửa hàng sẽ chạy một phần mềm do mPoS cung cấp trên điện thoại để đọc các thông tin từ máy POS và chuyển về cho máy chủ ngân hàng xử lý. Khi chúng ta đưa đưa thẻ vào cho máy đọc, thông tin thẻ sẽ được mã hóa trực tiếp trên máy đọc và truyền tải về điện thoại, sau đó điện thoại chuyển tới máy chủ ngân hàng dưới dạng dữ liệu mã hóa để xử lý. Điều này đồng nghĩa với ứng dụng sẽ không thể đọc bất cứ thông tin nhạy cảm nào và để đề phòng ứng dụng giả mạo thì mPoS chỉ cho phép cài thông qua AppStore hoặc PlayStore trên các máy iOS không jailbreak hoặc Android không root. Phiên bản dành cho máy Windows Phone cũng đang được phát triển.


Với tính di động tốt như vậy, bạn có thể tận dụng mPoS làm rất nhiều việc. Chẳng hạn như trong hoạt động thương mại điện tử, khi giao hàng cho khách đặt mua online với hình thức COD (Cash on Delivery) thì khách có thể dùng thẻ tín dụng của họ thay vì tiền mặt (nhiều người không thích dùng thẻ online vì sợ lộ thông tin tài khoản) hay chúng ta muốn nhận tiền từ một người bạn nào đó mà họ không online được thì cũng dễ dàng hơn rất nhiều, sau khi thanh toán thì tiện sẽ có sau khoảng 2 ngày, khá là nhanh. Cần nhớ rõ là mPoS hỗ trợ thẻ ATM với mức phí chỉ khoảng 0.8%, rất lợi so với thẻ credit (các ngân hàng thường thu 2% với Visa & Master, mPoS là 2.5%).


Ngoài những ưu điểm trên, có một ưu điểm rất lớn của mPoS là nó có thể quản lý các giao dịch được thực hiện một cách dễ dàng. Tại đây chúng ta có thể xem những giao dịch cũ, những giá trị của chúng hay hủy bỏ (void) chỉ bằng 2 nút bấm, điều rất khó làm ở những máy POS truyền thống. Như đã nói thì các thông tin được hiển thị cho người bán không gây nguy hiểm cho người sử dụng, đụng đến ngân hàng thì đều phải được chứng nhận của các tổ chức quốc tế và mPoS đã có những chứng chỉ đó. Bản thân các thiết bị này không phải do mPoS sản xuất mà do một công ty bảo mật thứ 3 thực hiện, họ chỉ cung cấp các giải pháp mà thôi nên bạn cũng có thể an tâm về thẻ tín dụng của chúng ta.



mpos.mpos-2.mpos-4.mpos-5.mpos-7.mpos-8.mpos-9.mpos-10.mpos-6.mpos-14.mpos-11.mpos-13.mpos-12.mpos-16.mpos-15.


Thử nghiệm mPoS, giải pháp thanh toán tiền kết nối với điện thoại của Việt Nam